Freitag, 14. August 2015

Tuyên bố của các tổ chức xã hội dân sự và công dân về những dự án tượng đài trăm tỷ, ngàn tỷ

Đất nước đang đứng trước những thử thách sống còn. Độc lập, toàn vẹn lãnh thổ bị đe dọa, uy hiếp từng ngày, từng giờ. Quản lý kinh tế yếu kém cùng tham nhũng bạo phát làm thất thoát trầm trọng tiền vốn và nguồn lực đất nước, làm ngân sách trống rỗng, dẫn đến:
  • Công nợ ngập đầu
Theo World Bank (Ngân hàng Thế giới), đến cuối 2014, nợ công của Việt Nam đã lên tới 110 tỷ USD (2,35 triệu tỷ đồng). Số nợ đó, bổ theo đầu dân thì một đứa trẻ sơ sinh vừa chào đời ở Việt Nam đã mang nợ hơn 1.200 USD (gần 30 triệu đồng).
  • Vắt kiệt sức dân
Nhà nước túng quẫn, bần cùng đến nước đè thu phí đến cả chiếc xe máy – phương tiện mưu sinh và đi lại thiết yếu của tuyệt đại bộ phận dân chúng. Thuế, phí chồng chất, vét đến đồng tiền còm cõi của dân nghèo, bù đắp phần nào ngân sách trống rỗng, nhưng sức dân bị vắt kiệt, đời sống càng khốn cùng điêu đứng, không đủ tái sản xuất.
Giật gấu vá vai, tiền vay mượn mọi nguồn, trong đó có nguồn vay ẩn chứa nhiều hiểm họa từ Trung Quốc – kẻ đã đánh chiếm nhiều đất đai, biển đảo và đang uy hiếp ngày càng trắng trợn độc lập chủ quyền của ta, quyết khuất phục ta bằng sức mạnh cứng và mềm. Cắn răng, ngửa tay vay của Trung Quốc là chấp nhận bị lệ thuộc, chi phối, khống chế ngày một thêm khó gỡ.

Tiền vay ai thì cũng là vay vào tương lai, vào trách nhiệm của các thế hệ người Việt mai sau. Tài lực sức dân hôm nay lẽ ra phải được sử dụng hiệu quả nhất, đầu tư cho sản xuất, khoa học công nghệ, vực dậy kinh tế, quốc phòng. Nhưng giới chức từ trung ương đến địa phương đã ném đồng tiền phải ký cược bằng vận mệnh đất nước, bằng hy sinh to lớn của nhân dân vào những dự án phô trương phù phiếm, vì thế không những không giúp vực dậy mà còn trở thành gánh nặng cho nền kinh tế vốn ốm yếu, khoét sâu thêm những bất ổn, mâu thuẫn xã hội. Những văn miếu, tượng đài, quảng trường, công sở, nhà văn hóa, bảo tàng hoành tráng, nguy nga, lộng lẫy trong mênh mông hoang vắng, vô cùng lạc lõng, phản cảm và bất nhẫn trước cuộc sống nghèo khổ, lam lũ, thiếu thốn trăm bề của phần lớn dân chúng.

Quảng Nam đất nghèo, dân đói, giáp hạt nhiều năm phải xin nhà nước cứu đói mỗi năm hơn ngàn tấn thóc. Không có tiền cho những dự án, công trình kinh tế, cho hạ tầng cơ sở vật chất nhưng tỉnh vẫn thản nhiên dốc hơn 400 tỷ ngân sách xây tượng đài Mẹ Việt Nam rồi để tượng xuống cấp nhanh chóng, không cần biết dân chúng có ngó ngàng hay không.

Sơn La miền núi heo hút, kinh tế chỉ trông vào rừng, mà rừng đã bị tàn phá trống trơ. Tỉnh có tới 71.000 hộ nghèo, không đủ cơm ăn, áo mặc. Các bản làng đều thấy những mái trường tranh tre nứa lá dột nát, xiêu vẹo, tuềnh toàng như chòi canh nương, học trò còm cõi, tả tơi. Sơn La nghèo đói thiếu thốn hơn cả Quảng Nam, vậy mà Hội đồng Nhân dân tỉnh này vừa thông qua chủ trương xây dựng tượng đài và quảng trường Hồ Chí Minh với chi phí 1.400 tỷ đồng – số tiền đủ ngói hóa toàn bộ các điểm trường, các ký túc xá cho Sơn La và các tỉnh miền núi!

Không phải chỉ có một tượng đài Hồ Chí Minh ở Sơn La. Thực hiện chỉ thị của Ban Bí thư, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa quy hoạch một hệ thống tượng đài Hồ Chí Minh đến 2030, Thủ tướng đã phê duyệt, với 14 tượng đài Hồ Chí Minh sẽ còn tiếp tục được mọc lên khắp ba miền: Bắc Kạn, Bắc Ninh, Bình Định, Đà Nẵng, Điện Biên, Hải Phòng, Hải Dương, Kiên Giang, Quảng Bình, Quảng Trị, Sơn La, Thái Bình, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc... Trong khi đó, có tới 58 địa phương đang xin xây dựng tượng đài Hồ Chí Minh. Sơn La chỉ là trường hợp vừa được phê duyệt "bổ sung" trong quy hoạch đến 2030. Nguồn vốn còm cõi của đất nước sẽ còn bị cơn bão tượng đài oan nghiệt tới tấp thổi bay hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng tiền tận thu suy kiệt sức dân, tiền ngửa tay vay nước ngoài đầy rủi ro, hiểm họa.

Đất nước đang vô cùng khó khăn, đang đứng trước những thử thách ngặt nghèo và đang thiếu tài lực trầm trọng để vượt qua. Chủ trương xây dựng hàng loạt tượng đài Hồ Chí Minh nguy nga, hoành tráng, tốn kém lúc này là hết sức nguy hại, hướng nguồn lực đất nước vào nhu cầu giả – một ảo tưởng áp đặt toàn trị mãi mãi lên đầu dân chúng – trong khi nhu cầu thật bị phớt lờ, khó khăn càng gay gắt hơn.

Chủ trương xây hàng loạt tượng đài Hồ Chí Minh với chi phí mỗi công trình từ vài trăm đến vài ngàn tỷ đồng tiền thuế của dân không những hết sức tương phản với cuộc sống còn vô cùng thiếu thốn của số đông dân chúng nhiều vùng miền, mà còn đặc biệt nguy hại vì tạo cơ hội béo bở cho quan tham đục khoét, bộ máy công quyền hư hỏng công khai tham nhũng tập thể. Đó là tội ác không thể dung thứ.

Thực tế cho thấy, công trình, dự án nào những người dính dáng vào đều chăm chăm một tỷ lệ phần trăm rất lớn chia chác, đặc biệt các công trình tượng đài không theo quy chuẩn xây dựng đại trà. “Xây dựng tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh hoành tráng, đồ sộ, xứng đáng với công đức của Người là đáp ứng nguyện vọng, tình cảm của đồng bào đối với Người” chỉ là cách ngụy biện vụng về, trơ trẽn nhằm lấp liếm cho những chục tỷ, trăm tỷ đồng rút ruột công trình, cốt tư túi.

Nhu cầu cấp thiết cháy bỏng của người dân là có con đường ra con đường đến bản, có cây cầu vững chãi, an toàn bắc qua sông suối dân qua lại hàng ngày, có bệnh xá, trường học kiên cố, chứ không phải là tượng đài, quảng trường nguy nga ở những nơi mà người dân vùng sâu vùng xa không biết trong đời có khi nào bước chân đến.

Vì những lẽ trên, chúng tôi – các tổ chức xã hội dân sự độc lập và những công dân Việt Nam ký tên dưới đây – nghiêm khắc đòi hỏi nhà nước khẩn cấp hủy bỏ những dự án xây dựng tượng đài Hồ Chí Minh, chặn đứng nguy cơ vơi hụt đáng kể quỹ ngân sách vốn eo hẹp, tạo thêm bất ổn mâu thuẫn xã hội đã và đang chồng chất.


Các tổ chức xã hội dân sự và cá nhân ký tên dưới đây:

1. Diễn đàn Xã hội Dân sự Dân quyền, đại diện TS Nguyễn Quang A
2. Hội Nhà báo Độc lập, đại diện TS Phạm Chí Dũng
3. Bauxite Việt Nam, đại diện GS Phạm Xuân Yêm
4. Ban Vận động Văn đoàn Độc lập, đại diện nhà văn Nguyên Ngọc
5. Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM
6. Phạm Duy Hiển, dịch giả (bút danh Phạm Nguyên Trường), Vũng Tàu
7. Hoàng Hưng, nhà thơ, Vũng Tàu
8. Nguyễn Khắc Mai, nhà nghiên cứu, Hà Nội
9. Võ Văn Tạo, nhà báo, Nha Trang
10. Nguyễn Huệ Chi, GS, Hà Nội
11. Chu Hảo, TS, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Hà Nội
12. Nguyễn Tường Thụy, nhà báo, Hà Nội
13. Phạm Gia Minh, TS, TP HCM
14. Hà Sĩ Phu, TS, Đà Lạt
15. Trần Minh Thảo, Bảo Lộc, Lâm Đồng
16. Hoàng Dũng, PGS TS, ĐHSP TP HCM
17. Mai Thái Lĩnh, nhà nghiên cứu, Đà Lạt
18. Hồ Ngọc Nhuận, TP HCM
19. Nguyễn Thị Kim Chi, nghệ sĩ ưu tú, Hà Nội
20. Vũ Linh, nguyên cán bộ giảng dạy Đại học Bách khoa Hà Nội, Hà Nội
21. JB Nguyễn Hữu Vinh, facebooker, Hà Nội
22. Bùi Minh Quốc, nhà thơ, cựu Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Lâm Đồng, Đà Lạt
23. Nguyễn Đăng Quang, Đại tá công an, Hà Nội
24. Nguyễn Xuân Diện, TS, Hà Nội
25. Trần Tiến Đức, nhà báo, đạo diễn, Hà Nội
26. Phan Thị Hoàng Oanh, TS, TP HCM
27. Nguyễn Nguyên Bình, nhà văn, Hội Nhà văn Hà Nội
28. Vũ Thư Hiên, nhà văn, cựu tù nhân lương tâm Việt Nam, Pháp
29. Hoàng Khánh Khang, Sài Gòn
30. Tiêu Dao Bảo Cự, nhà văn, Đà Lạt
31. Lê Phước Sinh, facebooker, Sài Gòn
32. Võ Quang Thái, kỹ sư hưu trí, Sài Gòn
33. Huỳnh Công Thuận, facebooker, Sài Gòn
34. Nguyễn Ngọc Hạnh, hưu trí, Hoa Kỳ
35. Trương Long Điền, công chức hưu trí, An Giang
36. Nguyễn Thái Lai, facebooker, Nha Trang
37. Nguyễn Thị Khánh Trâm, nhà nghiên cứu, TP HCM
38. Trần Văn Mạnh, kỹ sư, Vĩnh Phúc
39. Jack T Trần, chuyên viên điện toán, hưu trí, Hoa Kỳ
40. Vũ Quang Chính, nhà phê bình điện ảnh, Hà Nội
41. Phạm Quang Hiển, doanh nhân, Hà Nội
42. Vũ Vân Sơn, nguyên Chủ tịch Hội Người Việt tại Berlin và Brandeburg, Đức
43. Hồ Uy Liêm, TS, Hà Nội
44. Trần Bang, kỹ sư, cựu chiến binh chống giặc Tàu, Sài Gòn
45. Kha Lương Ngãi, cựu Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn giải phóng, Sài Gòn
46. Trần Văn Phong, 44 tuổi đảng, Nghệ An
47. Trần Đình Song, Specialist Engineering, Hoa Kỳ
48. Nguyễn Tấn Phùng, kỹ sư, Tiền Giang
49. Bùi Thanh Hiếu (Người Buôn Gió), blogger, Đức
50. Hoàng Minh Phương, kỹ sư, Hà Nội
51. Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội
52. Đào Thu Huệ, cán bộ Đại học Quốc gia, Hà Nội
53. Phùng Ngọc Hoài, giảng viên đại học hưu trí, An Giang
54. Phạm Hồng Thắm, nhà báo hưu trí, Hà Nội
55. Phạm Phú Minh, nhà báo, Diễn Đàn Thế Kỷ, Hoa Kỳ
56. Phùng Liên Đoàn, PhD, PE, Chủ tịch Quỹ khuyến học Việt Mỹ (VASF), Quỹ Khuyến khích tự lập (FESR) và Viện Việt Nam tương lai (IVNF), Hoa Kỳ
57. Nguyễn Đức Tường, GS TS, nguyên giảng viên Đại học Ottawa, Canada
58. Ngô Thị Hồng Lâm, chuyên viên nghiên cứu lịch sử Đảng, Vũng Tàu
59. Trần Văn Thọ, GS TS, Đại học Waseda, Nhật Bản
60. Hà Dương Tường, nguyên giáo sư Đại học Công nghệ Compiègne, Pháp
61. Trương Minh Hưởng, Hà Nam
62. Hoàng Thị Hà, hưu trí, Hà Nội
63. Phan Văn Phong, Hà Nội
64. Trần Văn Thủy, đạo diễn, Nghệ sĩ Nhân dân, Hà Nội
65. Vũ Mạnh Hùng, Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Thương mại, Hà Nội
66. Uông Đình Đức, TP HCM
67. Nguyễn Thế Hùng, GS TS, Đại học Đà Nẵng, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam
68. Vũ Quốc Ngữ, thạc sĩ, nhà báo tự do, Hà Nội
69. Trần Thị Thảo, nhà giáo, Hà Nội
70. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư kí Hội Trí thức yêu nước TP HCM
71. Phạm Thị Lâm, cán bộ hưu trí, Hà Nội
72. Hoàng Thế Đức, Hà Nội
73. Nguyễn Văn Túc, cựu tù nhân lương tâm, Thái Bình
74. Đinh Đức Long, TS, bác sĩ, Sài Gòn
75. Khổng Hy Thiêm, kỹ sư, Khánh Hòa
76. Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, Huế
77. Trịnh Hồng Kỳ, kinh doanh xuất nhập khẩu, TP HCM
78. Trịnh Bá Phương, Hà Nội
79. Tô Oanh, nhà giáo hưu trí, TP Bắc Giang
80. Phan Đắc Lữ, nhà thơ, Sài Gòn
81. Quan Nguyen, kỹ sư, Hoa Kỳ
82. Nguyễn Thành Nhân, nhà văn, dịch giả, Sài Gòn
83. Lưu Hồng Thắng, công nhân, Hoa Kỳ
84. Nguyễn Thúy Bình, kinh doanh, Sài Gòn
85. Đào Tiến Thi, Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
86. Phạm Quang Tuấn, PGS, Đại học New South Wales, Australia
87. Nguyễn Xuân Nghĩa, TS, giảng viên, TP HCM
88. Phạm Toàn, nhà nghiên cứu giáo dục độc lập, Hà Nội
89. Dương Sanh, nhà giáo, Khánh Hòa
90. Nguyễn Đắc Xuân, nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Huế, Huế
91. Tô Lê Sơn, kỹ sư, CLB Lê Hiếu Đằng, TP HCM
92. Nguyễn Đức Dân, GS TS, TP HCM
93. Đỗ Đăng Giu, nguyên Giám đốc nghiên cứu CNRS Đại học Paris-Sud, Pháp
94. Phan Bình Minh, cựu phóng viên Việt Nam Cộng hòa, Đức
95. Lê Hiền Đức (Công dân Liêm chính), hưu trí, Hà Nội
96. Bui Duc Thong, kỹ sư, Đức
97. Vũ Tuấn, GS TS, Nhà giáo nhân dân, hưu trí, Hà Nội
98. Đỗ Như Ly, kỹ sư hưu trí, TP HCM
99. Nguyễn Đan Quế, bác sĩ, cựu tù nhân lương tâm Việt Nam, TP HCM
100. Lê Văn Tâm, nguyên Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Nhật Bản
101. Đỗ Thị Minh Hạnh, Sài Gòn
102. Nguyễn Xuân Hoài, hưu trí, TP HCM
103. Nguyễn Tiến Trung, Thạc sĩ, TP HCM
104. Phạm Huy Việt, Đại tá, cựu chiến binh Thành cổ Quảng trị, hưu trí, Nghệ An
105. Phan Quốc Tuyên, kỹ sư, Thụy Sĩ
106. Đỗ Minh Tuấn, nhà văn, đạo diễn, Hà Nội
107. Thùy Linh, nhà văn, Hà Nội
108. Quản Mỹ Lan, Pháp
109. Khôi Nguyên, facebooker, Hoa Kỳ
110. Nguyễn Thanh Giang, TS, Hà Nội
111. Lê Thân, cựu tù chính trị Côn Đảo trước 1975, TP HCM
112. Nguyễn Đông Yên, GS TSKH, nghiên cứu và dạy Toán, Hà Nội
113. Bùi Tiến An, cựu chuyên viên Ban Dân vận thành ủy TP HCM, cựu tù chính trị chuồng
cọp Côn Đảo trước 1975, TP HCM
114. Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Huỳnh Kim Báu đại diện
115. Võ Văn Thôn, cựu Giám đốc Sở Tư pháp TP HCM, cựu Chủ tịch Ủy ban Nhân dân quận
3, TP HCM
116. Hội Bầu bí tương thân, Trưởng Ban điều hành Nguyễn Lê Hùng đại diện
117. Lê Công Giàu, cựu Phó Tổng Giám đốc Saigontourist, Imexco, TP HCM
118. Lê Khánh Luận, TS, nguyên giảng viên Đại học Kinh tế TP HCM, TP HCM
119. Hà Quang Vinh, hưu trí, TP HCM
120. Nguyễn Kim Huê, cựu chiến binh, TP HCM
121. Vũ Trọng Khải, PGS TS, chuyên gia kinh tế nông nghiệp, TP HCM
122. Ngô Kim Hoa, facebooker, Sài Gòn
123. Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, cựu Phó Tổng Biên tập báo Tuổi Trẻ, Hội An
124. Phạm Khiêm Ích, PGS TS, Hà Nội
125. Trần Thanh Bình, kỹ sư, Italia
126. Hoàng Lại Giang, nhà văn, TP HCM
127. Phạm Hải, blogger, Nha Trang
128. Nguyễn Đình Cống, GS TS, Đại học Xây dựng, Hà Nội
129. Lê Minh Hằng, cán bộ hưu trí, Hà Nội
130. Nguyễn Đăng Hưng, GS Danh dự Đại học Liège (Bỉ), TP HCM
131. Lê An Vi, nhà nghiên cứu độc lập Văn hóa Việt cổ, Hà Nội
132. Trần Minh Quốc, CLB Lê Hiếu Đằng, TP HCM
133. Lê Thị Minh Hà, Hà Nội
134. Nguyễn Thanh Tâm, Hoa Kỳ
135. Nguyễn Văn Dũng, giáo viên nghỉ hưu, TP Huế
136. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh
137. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM
138. GB Huỳnh Công Minh, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
139. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM
140. Trần Nhơn, TS, Hà Nội
141. Đặng Thị Hảo, TS, Viện Văn học, Hà Nội

Nguồn: Bauxite Việt Nam

Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen